Quỷ Cốc Tử luận về " Thuận
Nghịch " :
Thuận là thuận theo, là thích ứng với
hoàn cảnh ; nghịch là chống lại , là phản đối không theo. Con người thông thường
có lợi thì hòa hợp thân nhau, tổn hại thì gây gổ xa
nhau. Trong khi thiết lập mưu kế hay trong các trường hợp giao tế thương
thuyết cần phải hành xử hợp lý phạm trù mâu thuẫn này.
Quỷ Cốc
Tử được
xem như ông
tổ của
phái Tung Hoành gia ( học phái chuyên về du thuyết, bày mưu, lập kế thời
chiến quốc ) có bàn về những động thái cần thiết về ngoại
giao du thuyết rất rõ ràng ( tức thuật lượng nghi phát ngôn ).
Ngày nay các nguyên tắc này vẫn còn có một giá trị nhất
định. Mục đích là đo lường đối tượng để thuyết phục đối phương. Phải biết cách
nói, cách nghe, phân biệt lời nói, thái độ, tâm lý cá tính của đối phương.
Tâm lý người đời khá kỳ lạ, có khi cần nói thẳng không ngần ngại
nhưng cũng có lúc phải quanh co; có khi phải nói xuôi theo, có khi phải nói nghịch
lại, thật là phức tạp.
Bởi vậy trong khi nghe người khác thuyết phục hay tranh luận,
cần phải bình tĩnh, đừng để các giác quan hỗn loạn thì nhận thức sẽ sai lầm
dễ rơi
vào mê lộ của
đối phương.
Theo quy luật vật cùng loại thì hô ứng,
không đồng loại thì không hô ứng với nhau ( Đồng thanh tương ứng,
đồng khí tương cầu ). Tương tự, con người cũng vậy, thường chủ quan,
cảm tính và thiên kiến. không đồng tình với ý của mình thì cho là trái. Không hợp
với tâm lý tình cảm của mình thì cho là nghịch. Cho nên trong khi đối thoại
thuyết phục, ai hiểu đạo này thì thành công, không nắm vững thì thất bại.
Quỷ Cốc Tử xét về thái độ của lời nói
như sau :
1/ Nạn ngôn là lời nói khó, dùng lý luận đối lại, mục
đích làm cho người đối thoại bộc lộ ý tưởng thật của họ.
2/ Nịnh ngôn là nói xuôi theo, xu nịnh nhằm biểu lộ sự đồng
tình của mình cho người ta biết.
3/ Xảo ngôn là lời nói khéo léo hay ho, tự biểu
lộ trí
tuệ uyên
bác hơn người của mình.
4/ Bình ngôn là lời nói bình ổn để biểu
lộ sự dũng
cảm, quyết đoán của mình.
5/ Uy ngôn là lời nói nghiêm nghị làm
cho người đối thoại mình quan tâm đến thần thái của họ.
6/ Tĩnh ngôn là lời nói thản nhiên dù bị người
đối thoại dùng lý luận, kích bác đến thất bại vẫn bình tĩnh ôn hòa.
Quỷ Cốc Tử xét về trạng
thái tâm lý của lời nói như sau :
1/ Bệnh ngôn là lời nói không có khí lực, hư nhược.
2/ Oán ngôn là lời nói biểu lộ tự mình
đã hỗn loạn, vô lý.
3/ Ưu ngôn là lời nói buồn rầu không vui, thiếu sức
sống.
4/ Nộ ngôn là lời nói giận dữ, vọng
động, giống như bị khống
chế.
5/ Hỷ ngôn là lời nói vui mừng, đắc
ý, tản mạn.
Quỷ Cốc Tử, xét về mặt
cá tính của đối tượng đã đề ra mấy nguyên tắc đối thoại như sau :
1/ Đối với người ngu thì dùng thuật hùng biện để nói với
họ.
2/ Đối với người hùng biện thì im lặng lắng nghe.
3/ Đối với người cao quý thì dùng điều cao thượng
nói với họ.
4/ Đối với người đang thất bại khó khăn thì dùng sự khiêm
cung và lời động viên khích lệ để nói với
họ.
5/ Đối với người giàu sang thì vận dụng uy thế để nói với
họ.
6/ Đối với người bần cùng thì dùng điều lợi để nói với
họ.
7/ Đối với người dũng cảm thì dùng đạo nghĩa mà nói
với họ.
8/ Đối với người có chí tiến thủ thì
dùng sự sắc
bén để nói
với họ.
9/ Gặp người cường mạnh thì dùng sự nhu
hòa để nói
với họ.
10/ Gặp người có địa vị thì
dùng thế mà
nói với họ.
Mỗi một con người đều có một phong cách, một cá tính
riêng, hiểu được đối phương và tìm phương pháp đối thoại thích
hợp thì có thể thuyết
phục và giành được ưu thế.
Trăm mưu ngàn kế cũng phải tùy theo đối tượng mà vận
dụng, đều phải căn cứ vào tâm lý cá tính của con người.
Nghề quý ở tinh
thông, trí quý ở sáng
suốt, cho nên điều quan trọng là tùy cơ ứng biến, vận dụng các nguyên
tắc một cách thông minh.